Sử dụng mô hình hồi quy để ước tính tốc độ thấm từ đặc tính đất sau canh tác nương rẫy
Ở Việt Nam
Tác giả: TRẦN XUÂN MINH, NGUYỄN ĐÌNH VINH, TẠ THỊ BÌNH, NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG, HOÀNG THỊ MAI
TẠP CHÍ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP QUỐC TẾ
Quyển: FORESTRY IDEAS, 2023, vol. 29, No 2 (66): 300–313 Trang: 300–313
Năm xuất bản: 2/2023
Tóm tắt
Mục đích của nghiên cứu là: (i) đo lường các tính chất và tốc độ thấm khác nhau của đất; (ii) xác định mô hình tốc độ thấm đất tối ưu dựa trên các đặc tính của đất (độ xốp, mật độ khối, độ ẩm của đất, chất hữu cơ, đất sét, bùn và cát) sau khi du canh ở Việt Nam. Tốc độ xâm nhập được đo bằng máy đo thâm nhập vòng đôi tại 36 điểm lấy mẫu và phép đo được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 6 năm 2020. Vị trí của từng trạm xâm nhập được đánh dấu bằng thiết bị GPS. Kết quả cho thấy tốc độ thấm trong thảm thực vật phục hồi (đồng cỏ, cây bụi và cây tái sinh nhỏ) sau canh tác nương rẫy thay đổi từ 2,41 đến 3,23 mm·phút-1, tốc độ thấm trung bình đo được là 2,87 ± 0,22 mm·phút-1. Độ xốp của đất, hàm lượng chất hữu cơ và cát có mối tương quan dương với tốc độ thấm, trong khi mật độ khối, độ ẩm của đất, đất sét, phù sa có mối tương quan âm. Phân tích được thực hiện cho năm mô hình xem xét sự kết hợp của các đặc tính đất và được phân tích hồi quy. Kết quả cho thấy, để dự đoán tốc độ thấm của đất dựa trên một số tính chất của đất với 4 biến độc lập, mô hình hồi quy đa tuyến tính IR = 1,745 + 0,026 (SP) + 0,016 (OM) - 0,026 (SM) + 0,003 (cát) với hệ số xác định R2 = 0,856, Tiêu chí thông tin Bayes (BIC) = -55,77 và xác suất hậu nghiệm = 15,5 % là mô hình tốt nhất để ước tính tốc độ thấm và được khuyến nghị cho khu vực nghiên cứu.
Từ khóa
mật độ khối, hồi quy đa tuyến tính, chất hữu cơ, độ ẩm của đất, độ xốp của đất.