Sức sản xuất thịt của tổ hợp lai GF337xGF24 ở các khối lượng giết mổ khác nhau.
Tác giả: Lê Đình Phùng, Hoàng Thị Mai, Nguyễn Xuân Bả, Trần Ngọc Long, Lê Đức Thạo, Văn Ngọc Phong và Hồ Lê Quỳnh Châu
Tạp Chí Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn
Quyển: 06 Trang: 63-72
Năm xuất bản: 3/2020
Tóm tắt
Tổng số 136 con lợn lai GF337xGF2460 ngày tuổi (25,2±2,71kg/con), tỷ lệ đực:cái là 1:1 được phân ngẫu nhiên vào 12 đơn vị thí nghiệm (3 nghiệm thức-NT x 4 lần lặp lại) nhằm đánh giá sức sản xuất thịt ở 3 mức khối lượng giết mổ (KLGM) 100, 110 và 120 kg. Đơn vị thí nghiệm là nhóm lợn trong một ô chuồng. Lợn được cho ăn tự do theo từng giai đoạn sinh trưởng. Khi lợn ở mỗi NT đạt KLGM dự kiến, lợn được cân để xác định khối lượng (KL) kết thúc và 2 con lợn (1 đực + 1 cái)/đơn vị thí nghiệm có KL gần nhất với KL trung bình của NT được chọn mổ khảo sát để xác định năng suất thân thịt và lấy mẫu để phân tích chất lượng thịt. Kết quả cho thấy, tăng khối lượng, lượng ăn vào và tiêu tốn thức ăn trong toàn thời kỳ nuôi thịt đều có xu hướng tăng khi KLGM tăng từ 99,8 lên 120,5 kg, tương ứng tăng từ 877,9 lên 915,6 g/ngày (P<0,05), từ 2,26 lên 2,47 kg/con/ngày (P<0,05) và từ 2,58 lên 2,70kg TĂ/kg TKL (P>0,05). Tỷ lệ móc hàm và tỷ lệ thịt xẻ là không sai khác ở các mức KLGM khác nhau. Tỷ lệ nạc có xu hướng giảm (P=0,109), dày mỡ lưng và diện tích cơ thăn có xu hướng tăng khi KLGM tăng nhưng sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,1). Giá trị pH, tỷ lệ mất nước bảo quản, tỷ lệ mất nước chế biến và độ dai của thịt sau giết mổ 24 và 48 giờ là không sai khác ở các KLGM khác nhau. Tuy nhiên, độ sáng thịt sau giết mổ 48 giờ giảm; độ đỏ, độ vàng của thịt và tỷ lệ mỡ thô trong cơ thăn có xu hướng tăng lên khi KLGM tăng. Mỗi trang trại, với quy mô nuôi 500 lợn thịt, tăng lợi nhuận ròng từ 671.295.996 lên 949.281.908 VNĐ/năm khi tăng KLGM từ 100 lên 120kg. Có thể áp dụng tăng KLGM của tổ hợp lai GF337xGF24 lên 120kg trong chăn nuôi công nghiệp.
Từ khóa
Khối lượng giết mổ, GF337, sức sản xuất thịt